|
Giá xăng dầu và lạm phát
Giá xăng dầu có ảnh hưởng mạnh trực tiếp và gián tiếp đến lạm phát ở Việt Nam. Mỗi khi tăng giá xăng dầu là một lần kích hoạt cơ chế bùng nổ các xung lực kích đẩy lạm phát, bao gồm cả lạm phát giá cả, lạm phát chi phí và lạm phát tâm lý.
Xăng dầu là “yếu tố đầu vào” của nhiều hoạt động kinh tế và tiêu dùng xã hội, nên các động thái giá xăng dầu có ảnh hưởng trước hết và trực tiếp tới chi phí sản xuất của hầu hết các ngành và hoạt động kinh tế có liên quan đến xăng dầu, bao gồm: Các loại máy móc, thiết bị sản xuất dùng nhiên liệu xăng, dầu hay chạy điện bằng nguồn xăng dầu; Các tàu, thuyền đánh cá, các phương tiện vận tải, dịch vụ vận chuyển hàng hóa và bản thân các hàng hóa được vận chuyển bằng các phương tiện tiêu thụ nhiên liệu xăng dầu; các máy móc, công cụ sản xuất và dịch vụ thủy lợi trong nông nghiệp; Các dịch vụ xã hội và các thiết bị, phương tiện trực tiếp phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất-tiêu dùng xã hội khác…Nghĩa là, khi giá xăng dầu tăng đều trực tiếp dẫn đến sự điều chỉnh tăng chi phí và giá cả các yếu tố cấu thành hàng hóa-dịch vụ “sản phẩm đầu ra” xã hội, dó đó làm tăng giá hấu hết các mặt hàng hóa và dịch vụ xã hội, từ đó làm tăng tổng mặt bằng giá xã hội, tức tăng lạm phát giá cả và chi phí đẩy.
Hơn nữa, giá xăng dầu tăng còn là cái cớ để các doanh nghiệp và nhà phân phối, kể cả các bà bán rau ngoài chợ xanh, chợ cóc nơi thành thị, lẫn thôn quê vịn vào, “té nước theo mưa”, giải thích cho sự gia tăng bất thường, với tốc độ cao hơn nhiều tốc độ tăng giá xăng dầu tại cùng thời điểm so sánh. Sự gia tăng bất thường này hay được giải thích kiểu do mỗi thứ tăng một ít và sự tiện lợi trong tính toán, nhất là khi mức khởi điểm tính giá thường không quá cao và bước tăng giá dễ làm tròn (ví dụ, giá 1 cốc nước chè hay vé trông giữ xe máy thường tăng từ 1000đ lên 2000 đ, tức tăng 100% thay vì 15-20% của tăng giá xăng dầu).
Ngoài ra, khi giá xăng dầu tăng cũng dễ làm tăng kỳ vọng lạm phát và tâm lý sẵn sàng thương lượng và chấp nhận các kiểu tăng giá giữa các nhà kinh doanh theo hợp đồng hay giữa các bà nội chợ với tiểu thương ngoài chợ, tức làm tăng lạm phát tâm lý của cả nhà kinh doanh , lẫn người tiêu dùng xã hội.
Tóm lại, mỗi khi giá xăng dầu tăng sẽ trực tiếp và gián tiếp khởi động một vòng xoáy lạm phát đan xen phức tạp và còn bị nhân bội bởi các chiêu tung tin đồn thất thiệt và đầu cơ sẽ bùng phát cùng vói sự gia tăng giá xăng dầu ở Việt Nam. Điều này khiến cho mức ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu đến lạm phát thực tế sẽ luôn lớn vượt hơn bất cứ sự tính toán cũng nhắc và dự báo có tính chất an ủi nào của cơ quan, đơn vị nào được giao đánh giá tác động của tăng giá xăng dầu đến thị trường Việt Nam.
Giá xăng dầu và sự minh bạch, cạnh tranh lành mạnh của thị trường
Giá xăng dầu còn phản ánh và cho thấy sự minh bạch, cũng như sự lành mạnh trong cơ chế thị trường của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi.
Theo Bộ Tài chính, từ năm 2009, Chính phủ thực hiện điều hành giá mặt hàng xăng, dầu theo nguyên tắc thị trường, Nhà nước không còn bù lỗ, hỗ trợ đối với kinh doanh các mặt hàng xăng, dầu như trước đây.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân, cho đến nay giá xăng dầu của Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn mang tính thị trường do chưa có cơ chế cạnh tranh thị trường đầy đủ. Về cơ bản, giá xăng dầu được phân quyền quản lý giữa các đơn vị chủ quản và một số đầu mối nhập khẩu xăng dầu truyền thống độc quyền. Thậm chí, đã có lúc người ta thấy có sự vận dụng ngược trình tự quy luật thị trường, tức chủ trương cho phép các doanh nghiệp độc quyền được định giá xăng dầu theo giá thị trường thé giới, mà không phải cạnh tranh thị trường; trong khi cần làm ngược lại, phải cho cạnh tranh thị trường đầy đủ và lành mạnh trước khi tự do hóa giá cả thị trường để tránh biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp và tạo cơ hội thu lợi nhuận độc quyền kép cho doanh nghiệp độc quyền.
Sau Quyết định 187, Nghị định 54 và Nghị định 55/2007/NĐ-CP là Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng dầu có hiệu lực từ ngày 15/12/2009. Theo Nghị định 84, doanh nghiệp có quyền tăng giá xăng dầu cứ 10 ngày/lần nếu tăng dưới 7% và báo cáo sau, tăng từ 7 đến 12 % thì doanh nghiệp được quyền tăng giá bán lẻ 7%, cộng thêm 60% của mức tăng từ 7% - 12%. Khoản lỗ 40% còn lại, doanh nghiệp sẽ được quyền sử dụng Quỹ bình ổn giá để bù đắp theo hướng dẫn của Bộ Tài chính (chỉ được dùng quỹ bình ổn khi mức tăng giá trên 7%). Và trường hợp giá thế giới tăng trên 12% thì giá xăng dầu trong nước hoàn toàn do Nhà nước quyết định. Nghị định ra đời được coi là bước tiến lớn trong việc quản lý thị trường xăng dầu khi cơ chế giám sát minh bạch hơn và tạo sự chủ động cao hơn cho doanh nghiệp theo cơ chế thị trường song không thể thiếu bàn tay hữu hình của nhà nước.
Gần đây cho thấy có sự thỏa hiệp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp độc quyền xăng dầu khi khẳng định cơ chế mới về quản lý giá xăng dầu; Theo đó, chấp nhận mức giá hiện tại sau cú sốc tăng gía tháng 3/2011 như giá nền, gốc để so sánh và cho phép doanh nghiệp chủ động tăng, giảm giá xăng dầu theo sát động thái giá thị trường thế giới khi mức điều chỉnh không quá 5% giá gốc đó, còn nếu vượt mức trên thì làm phương án trình cơ quan chức năng nhà nước xem xét, phê duyệt…Đồng thời, giãn cách điều chỉnh không ngắn hơn 3 tháng/lần thay vì 10 ngày/lần như quy định trong Nghị định 84, được coi là quá dầy và dễ (dù chưa khi nào) bị doanh nghiệp lợi dụng.
Tuy nhiên, bất cập là ở chỗ, doanh nghiệp dễ dàng xé nhỏ mức tăng giá dưới 5% như kiểu quản lý giá sữa mà người ta đã chứng kiến trên thực tế những năm qua; Hơn nữa, chưa có cơ chế giám sát và chế tài buộc doanh nghiệp hạ giá khi giá thế giới giảm nhanh và sâu. Ngoài ra, điều khiến dư luận vẫn ấm ức và chưa thỏa mãn là chưa có kiểm toán giá xăng dầu, thậm chí chưa có cả việc minh bạch và công khai hóa các chỉ số thành phần giá xăng dầu ( dù cần hoan nghênh việc Petrolimex gần đây đã đưa cách tính giá xăng dầu lên trang thông tin điện tử chính và Bộ Công Thương từ 1/3/2011 đã đưa lên tờ tin Thị trường hàng ngày cách tính toán về giá cơ sở giúp cho các nhà khoa học, quản lý biết rõ giá cơ sở tại từng thời điểm. Bộ cũng đã yêu cầu tất cả các doanh nghiệp đăng phần tính toán giá xăng dầu cơ sở của mình lên website của đơn vị. Cũng phải nói thêm là đây là mức giá cơ sở được tính trên quy định của Nghị định 84, và các yếu tố đầu vào đều do các cơ quan nhà nước ban hành, chứ không phải giá vốn của doanh nghiệp; giá vốn có thể cao hơn hoặc thấp hơn xoay quanh giá cơ sở đó, phụ thuộc vào việc ký kết thỏa thuận với nhà cung cấp và thời điểm giao hang). Chính sự thiếu tường minh cơ cấu giá xăng dầu này là nguyên nhân giải thích cho điều khó giải thích nhất là dù giá lên hay xuống thì doanh nghiệp đầu mối nhập xăng dầu luôn kêu lỗ, cơ quan chức năng thì luôn chịu cảnh” trên đe dưới búa”, ngân sách Nhà nước thất thu và người tiêu dùng thì cắn răng chịu đựng vì không còn lựa chọn nào khác. Phải chăng tất cả lợi lộc độc quyền xăng dầu đều rơi vào túi các đại lý dù là tính chất nhà nước hay tư nhân thì cũng độc quyền không kém và đang ngày cảng mở rộng trên phạm vi cả nước.
Theo Bộ Công Thương, Tổng công ty dầu Việt Nam- PVOil hiện chiếm 25%, Saigon Petro chiếm 8%, còn Petrolimex chiếm khoảng 55% thị trường xăng dầu cả nước (các vùng có cạnh tranh cao như Hà Nội hoặc TP Hồ Chí Minh thì thị phần của Petrolimex chỉ trên dưới 40%, còn ở các vùng như Sơn La, Lai Châu, Tây Nguyên thì thị phần gần như 100%); trong đó 30 % thị phần của Petrolimex là bán buôn cho các doanh nghiệp, khoảng trên 25% tự bán thông qua hệ thống 1.995 cây xăng của mình, chiếm khoảng gần 20% trong tổng số 10.000 cây xăng trên toàn quốc.
Rõ ràng là, một cơ chế giá xăng, dầu còn nhiều lúng túng và rối, kiểu “lưỡng tính”, vừa muốn có giá cả thị trường trong cơ chế không có cạnh tranh thị trường, thì muốn hay không cũng tất yếu không chỉ là tác nhân thực tế và tiềm tàng làm méo mó giá cả, đe dọa lạm phát và bất ổn kinh tế vĩ mô cũng như vi mô, mà còn gây cảnh “đục nước béo cò”, “tăng nhanh, giảm chậm”, thậm chí giá chỉ tăng một chiều, tăng thực còn giảm hình thức và giảm sút sức chấp dẫn, lành mạnh của môi trường đầu tư và làm chậm lại quá trình đột phá thể chế, trước hết là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng.
Giá xăng dầu và uy tín, hiệu quả quản lý nhà nước
Giá xăng dầu còn là thước đo và ảnh hưởng đến uy tín, cũng như hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội.
Một khi cơ chế quản lý giá xăng dầu không cho phép ổn định và thị trường hóa giá xăng dầu thì cũng có nghĩa là hiệu quả quản lý nhà nước đối với giá xăng dàu nói riêng, giá cả thị trường và nền kinh tế vĩ mô nói chung đang chưa đạt yêu cầu đề ra.
Hơn nữa, khi có sự thay đổi đến chóng mặt của động thái chính sách quản lý theo hướng không thể dự báo được; đặc biệt là, khi mà cơ chế quản lý vừa được thông qua, nhưng không được thực thi đầy đủ, dễ dàng bị gác lại hay điều chỉnh bởi những giải thích đơn phương, tùy tiện, những nhân danh lợi ích quốc gia thiếu căn cứ pháp lý minh bạch, đầy đủ, thì còn có nghĩa là uy tín và hiệu lực quản lý nhà nước đã, đang và sẽ còn bị tổn thương, thậm chí giảm sút, lòng tin của xã hội bị xúc phạm nặng nề.
Tóm lại, đằng sau giá xăng dầu là bức tranh về những triển vọng lạm phát, về sự minh bạch của môi trường đầu tư và cơ chế thị trường, cũng như của uy tín, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước…Vì vậy, cần quan tâm đúng mức và sớm hoàn thiện cơ chế quản lý giá xăng dầu theo đúng cơ chế thị trường, lành mạnh, phù hợp cam kết và thông lệ thế giới;Từ đó góp phần tích cực kiềm chế vững chắc lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hoàn thiện thể chế của một Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang hướng đến trong quá trình Đổi mới và Hội nhập toàn diện.