Không thu phí xăng dầu từ ngày 1/1/2012
Luật Thuế bảo vệ môi trường được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với giảm ô nhiễm môi trường, phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới.
Luật góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó thay đổi nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát thải ô nhiễm tại nguồn...
Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thế và hoàn thuế bảo vệ môi trường.
Theo quy định của Luật, đối tượng chịu thuế gồm tám nhóm hàng hóa là: xăng dầu, than đá, dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (dung dịch HCFC), túi nilông thuộc diện chịu thuế, thuốc trừ cỏ, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử trùng kho, thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng.
Về quy định đối tượng không chịu thuế: theo điều 112 Luật Bảo vệ môi trường: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh một số sản phẩm gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế môi trường,” vì vậy, các sản phẩm được lựa chọn đưa vào đối tượng chịu thuế phải là những sản phẩm được sản xuất, nhập khẩu mà khi sử dụng mới gây tác động xấu đến môi trường và sức khỏe con người. Do đó, những hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường nhưng không được sử dụng ở Việt Nam thì sẽ được đưa vào đối tượng không chịu thuế bảo vệ môi trường.
Luật Thuế bảo vệ môi trường gồm 4 chương, 13 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012, khi Luật có hiệu lực thi hành thì không thu phí xăng dầu.
Hợp tác xã được hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011, sửa đổi bổ sung các nội dung về cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới; phân loại nghiệp vụ bảo hiểm; tái bảo hiểm bắt buộc; quy định về hình thức doanh nghiệp; các vấn đề liên quan đến đấu thầu, hợp tác và cạnh tranh; điều kiện cấp phép; đại lý bảo hiểm; chức năng quản lý nhà nước, bảo vệ quyền lợi người được bảo hiểm và sửa đổi các quy định phải được Bộ Tài chính chấp thuận.
Đối với việc sửa đổi quy định về hình thức doanh nghiệp, điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành quy định các hình thức doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp nhà nước phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh, 100% vốn nước ngoài được chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Ngoài ra Hợp tác xã cũng là tổ chức kinh tế, có tư cách pháp nhân, có thể hoạt động kinh doanh bảo hiểm nếu đáp ứng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Vì vậy điều 59 sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định về các loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, tổ chức bảo hiểm tương hỗ và hợp tác xã bảo hiểm.
Bổ sung hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán bổ sung thêm hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ để có căn cứ pháp lý quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
Về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, bổ sung điều 10a về chào bán chứng khoán riêng lẻ, chủ yếu tập trung quy định về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ của công ty đại chúng. Trong đó quy định hạn chế chuyển nhượng 1 năm các trường hợp không bị hạn chế chuyển nhượng và khoảng cách 6 tháng giữa các đợt chào bán cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ. Liên quan tới quy định này, Luật bổ sung định nghĩa về “chào bán chứng khoán riêng lẻ” và sửa tên chương II Luật Chứng khoán thành “chào bán chứng khoán.”
Việc bổ sung quy định trên nhằm đảm bảo căn cứ pháp lý cho hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, tránh trường hợp doanh nghiệp lợi dụng việc chào bán riêng lẻ để chào bán ra công chúng; ngăn ngừa việc pha loãng sở hữu của các cổ đông khác; nâng cao trách nhiệm doanh nghiệp trong huy động và sử dụng vốn.
Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán còn bổ sung nội hàm khái niệm “chứng khoán,” chào bán chứng khoán ra công chúng, quản trị công ty đại chúng, chào mua công khai, cơ sở pháp lý cho quản lý và tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán và liên kết thị trường chứng khoán và các quốc gia khác, về công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2011.
Nhiều đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp
Một trong những nội dung chủ yếu, mới của Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp là miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm có ít nhất một vụ lúa trong năm; diện tích đất làm muối.
Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được nhà nước giao cho hộ nghèo. Các hộ gia đình, cá nhân nông dân được nhà nước giao đất để sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân là xã viên hợp tác xã, nông trường viên, lâm trường viên đã nhận đất giao khoán ổn định của hợp tác xã, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật; hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp có quyền sử dụng đất nông nghiệp góp đất của mình để thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo quy định của Luật Hợp tác xã được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức giao đất nông nghiệp.
Nghị quyết còn quy định về đối tượng được giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, về hạn mức giao đất nông nghiệp, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011. Thời hạn miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định tại Nghị quyết được thực hiện từ ngày 1/1/2011 đến ngày 31/12/2020./.