Khi đó, xăng dầu sẽ phải chịu thuế bảo vệ môi trường thay cho phí như hiện nay. Đối với xăng dầu sản xuất hoặc nhập khẩu để bán, thời điểm tính thuế là thời điểm đầu mối kinh doanh xăng dầu bán ra.
Theo luật thuế mới này, đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường gồm: Xăng, dầu, mỡ nhờn; than đá; dung dịch HCFC; túi nilông thuộc diện chịu thuế; thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối, thuốc bảo quản lâm sản và thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Luật cũng ghi rõ, trường hợp xét thấy cần thiết phải bổ sung đối tượng chịu thuế khác cho phù hợp với từng thời kỳ thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quy định.
Tại biểu khung thuế, so với đề xuất ban đầu, mức thuế của túi ni lông thuộc diện chịu thuế đã tăng từ 20.000 – 30.000 đồng/kg lên 30.000 – 50.000 đồng/kg.
Mức thuế của xăng là từ 1.000 – 4.000 đồng/lít. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, xăng Etanol đã được loại trừ khỏi đối tượng chịu thuế. Đồng thời, xăng dầu bán cho phươn tiện vận tải trên các tuyến đường quốc tế sẽ được hoàn thuế.
Luật cũng quy định rõ than chịu thuế bảo vệ môi trường là than đá, đồng thời phân loại cụ thể mặt hàng than đá bao gồm than nâu, than an – tra – xít, than mỡ và các loại than đá khác.
Về căn cứ tính thuế, theo quy định của luật căn cứ tính thuế bảo vệ môi trường là số lượng hàng hóa tính thuế và mức thuế tuyệt đối.
Lý do được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích là: Mục tiêu ban hành luật thuế này là nhằm điều chỉnh hành vi, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, không đặt quá cao mục tiêu thu ngân sách.
Mặt khác, xét về tính chất, thuế bảo vệ môi trường khác với nhiều sắc thuế ở điểm đánh vào mức độ gây ô nhiễm hàng hóa, không nên đánh trên giá trị hàng hóa. Vì vậy, mức thuế phải nộp không phụ thuộc vào việc tăng hay giảm giá bán hàng hóa.
Cũng theo giải thích của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thuế bảo vệ môi trường áp dụng với hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm và người tiêu dùng phải chịu thuế. Vì vậy, hàng hóa chưa đưa vào sử dụng thì chưa thể đánh thuế.