Tính toán
của Nhóm Kỹ thuật Tốc độ dòng chảy (Flow Rate Technical Group) gồm các
nhà khoa học do chính phủ Mỹ triệu tập, thực hiện dưới sự giám sát của
Bộ Năng lượng và Cục Khảo sát địa chất Mỹ cho thấy, lúc mới bị nổ, giếng
dầu này phun ra biển mỗi ngày 62.000 thùng dầu, sau đó giảm dần xuống
53.000 thùng/ngày trước khi miệng giếng bị chặn lại vào ngày 15-7. Sử
dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại như video độ nét cao quay dưới
đáy biển, sóng siêu âm, ảnh vệ tinh… nhóm này tính ra rằng, trong vòng
85 ngày thảm họa, lượng dầu thô phun vào đại dương là 4,9 triệu thùng.
Số liệu mới nhất cũng ghi nhận tập đoàn BP - bằng nhiều cách khác
nhau - đã thu gom được 800.000 thùng dầu, số còn lại vẫn lơ lửng trong
lòng biển như những đám mây độc và tác hại của chúng đối với môi trường,
với hệ sinh vật biển cũng như với đời sống của các cộng đồng dân cư ven
bờ vịnh Mexico vẫn chưa xác định được.
Dù không tính toán được chính xác quy mô của thảm họa, ngay từ đầu
Chính phủ Mỹ đã có những phản ứng mạnh mẽ. Tổng thống Mỹ Barack Obama đã
bốn lần đi thị sát trực tiếp khu vực bị xâm hại, thậm chí ông phải hoãn
một chuyến công du Indonesia - một đồng minh quan trọng và là nơi ông
Obama sống thời thơ ấu - để theo dõi việc ứng phó với thảm họa. Bộ Tư
pháp Mỹ đã quyết định khởi kiện BP và ban hành nhiều biện pháp buộc tập
đoàn này phải chịu trách nhiệm. Chỉ vài tuần sau thảm họa, chính quyền
Mỹ đã yêu cầu BP phải lập một quỹ 20 tỉ đô la Mỹ dự phòng cho việc bồi
thường những thiệt hại kinh tế mà thảm họa gây ra cho dân Mỹ; yêu cầu BP
phải báo cáo mọi giao dịch tài chính của tập đoàn và phải thanh toán
mọi chi phí liên quan tới việc làm sạch môi trường vùng bị nhiễm dầu…
Mới đây, ngày 29-7, một tòa án ở Mỹ đã bắt đầu thụ lý vụ kiện của 200
nguyên đơn đòi BP phải bồi thường thiệt hại.
Đáng chú ý là mức phạt mà BP phải chịu tương ứng với quy mô và mức độ nghiêm trọng của thảm họa. Theo Luật Nước sạch của Mỹ (Clean Water Act)
cứ mỗi thùng dầu tràn ra biển, gây ô nhiễm nguồn nước thì người gây ra
phải nộp phạt tối thiểu 1.100 đô la Mỹ (tức gấp 15 lần giá 1 thùng dầu
hiện nay). Trong trường hợp có bằng chứng xác định tai nạn tràn dầu xảy
ra do sự “thiếu trách nhiệm” của chủ thể, trong trường hợp này là tập
đoàn BP, mức phạt sẽ tăng lên 4.300 đô la Mỹ cho mỗi thùng dầu. Sau
khi số liệu mới nhất về lượng dầu tràn được công bố, các luật sư của Bộ
Tư pháp Mỹ đang tính toán mức phạt mà BP phải chịu, dao động trong
khoảng từ 4,5 tỉ cho đến 17,6 tỉ đô la Mỹ, chưa tính số tiền mà BP phải
bỏ ra để ngăn chặn việc tràn dầu cũng như số tiền phải bồi thường cho
những người dân mà công ăn việc làm và thu nhập bị ảnh hưởng bởi thảm
họa trên vịnh Mexico - dự tính sẽ không dưới 60 tỉ đô la Mỹ.
Mặc dù đã nỗ lực rất lớn và có thể coi là thành công trong việc tìm
giải pháp khoa học để bịt miệng giếng dầu tràn, tập đoàn BP đã chịu tổn
thất nặng nề cả về uy tín lẫn về kinh tế. Giá cổ phiếu của BP trên thị
trường chứng khoán giảm thê thảm; ngày 21-6 giá cổ phiếu BP chỉ còn
27,02 đô la Mỹ, chưa bằng một nửa mức 59,88 đô la ngày 19-4 trước khi
xảy ra thảm họa. Theo báo cáo tài chính mà BP công bố hôm thứ Ba tuần
trước, trong quí 2-2010, tập đoàn này đã lỗ 17 tỉ đô la Mỹ do phải chi
ra 32 tỉ đô la để ngăn chặn thảm họa tràn dầu. BP cũng đã phải bán đi
nhiều tài sản giá trị ở khắp các châu lục để lấy tiền khắc phục hậu quả.
Tổng giám đốc của BP, ông Tony Hayward, đã bị mất chức.
Nhiều người tưởng rằng, sự ra đi của ông Tony Hayward - và được thay
bằng ông Robert Dudley, người Mỹ đầu tiên nắm cương vị điều hành tập
đoàn BP của Anh - sẽ khiến Chính phủ Mỹ “nguôi giận” và rút lại đơn
kiện. Nhưng không phải vậy, trước tin thay đổi nhân sự hàng đầu ở BP,
người phát ngôn của Chính phủ Mỹ, Robert Gibbs, chỉ lạnh lùng: “Chúng
tôi không quan tâm ai lãnh đạo BP. Họ có những nghĩa vụ và trách nhiệm
phải chu toàn, cho dù ai làm giám đốc điều hành cũng vậy”.
Đối chiếu vụ Vedan bức tử sông Thị Vải ở Việt Nam với vụ tràn dầu ở
vịnh Mexico, có người cho rằng Chính phủ Mỹ đã quá “nặng tay” với tập
đoàn BP; thậm chí có người hoài nghi Chính phủ Mỹ xử ép BP để tạo điều
kiện cho các tập đoàn dầu lửa Mỹ như ExxonMobil hay ConocoPhilips vươn
lên sau khủng hoảng. Vụ BP là một tai nạn ngoài ý muốn và BP đã nỗ lực
rất lớn để làm giảm tác hại của nó, cho dù phải thay lãnh đạo, phải bán
tài sản để khắc phục hậu quả - hoàn toàn trái ngược với thủ đoạn của
Vedan cố ý gây ô nhiễm trong suốt 15 năm và cò kè lật lọng trong việc
khắc phục sự cố mà hiện vẫn nhởn nhơ coi thường luật pháp. Nhưng suy cho
cùng, không giống như Việt Nam, chính quyền Mỹ ứng xử với BP theo luật,
không chèn ép mà cũng không nhân nhượng. Luật của Mỹ không dung thứ cho
mọi hành vi xâm hại tài sản quốc gia, xâm hại môi trường sống, dù nhỏ
nhất, dù vô ý, dù gây ra bởi một doanh nghiệp đáng kính như BP. Sự quyết
liệt của chính quyền Obama đối với BP không phải do họ “ác cảm” hay
“thành kiến” với tập đoàn này mà chỉ là biểu hiện sức mạnh của nhà nước
pháp quyền trong một xã hội thượng tôn pháp luật.